09 October, 2009

Video: Tài Liệu Sự Thật Về Cuộc Thảm Sát Tại Huế

Nghe Nhân Chứng Nói Về Nguyễn Đắc Xuân Hoàng Phủ Ngọc Tường & Hoàng Phủ Ngọc Phan Thảm Sát Dân Huế như thế nào!

* Nếu Video chưa hiện lên xin chờ, hoặc nhấn F5


VNCH Flag Nếu Video chưa xuất hiện xin chờ, hoặc nhấn F5




Nguyễn Đắc Xuân Chạy Tội Đàn Áp Dân Huế

Một ngày vào năm 1970, cơ sở của Thành uỷ ở Huế gởi báo cáo ra cho biết Chánh phủ Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn vừa trao cho nhà văn nữ Nhã Ca một giải thưởng lớn dành cho cuốn Bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế - cuốn sách nói xấu lực lượng cách mạng trong tết Mậu thân. Đặc biệt chương 7 Chuyện Từ Thành Nội viết xuyên tạc các hoạt động cách mạng của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, và các vị nhân sĩ trí thức trong Liên minh các LLDTDC và HB Thành phố Huế .v.v. Anh Tống Hoàng Nguyên-phụ trách an ninh của Thành uỷ cho tôi mượn cuốn sách, tôi đọc thấy ở Chương 7 viết về nhân vật Đắc “là một sinh viên trẻ trung, hăng hái..Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tù hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tội”. Bài ghi chép xem Đắc như một dẫn chứng về tội ác nhồi sọ trí thức của Cộng sản.

Biết Nhã Ca viết ám chỉ mình, nhưng đọc xong chương sách tôi không hề giận tác giả, chuyện phục vụ tâm lý chiến rẻ tiền, cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca phụ trách nguyên cả một chương trình của đời Tự Do của Mỹ tôi còn lạ gì. Chỉ buồn cười thôi. Các hoạt động của tôi ở Huế dân Huế biết, các đồng chí đồng sự của tôi hiện còn đang sống đều biết rất rõ. Giữa một cuộc chiến đấu lớn lao, đông đảo như thế, tôi xử ai và tôi giết ai tôi không thể làm một mình và chắc chắn 30 năm qua những đối tượng ấy không thể làm thinh trước dư luận báo chí trong và ngoài nước. Tôi đã mở toà án ở đâu và xử ai ? Đến nay ở nước ngoài có lẽ Nhã Ca có thể viết rõ ra để chứng minh tính chân thực của cuốn sách được Nguyễn Văn Thiệu trao giải năm nào. Còn tôi,-một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Những chuyện Nhã Ca bóp méo sự thật vẽ rắn thêm chân chẳng quan hệ gì với tôi.

Nhã Ca hay Trần Thy Nhã Ca là bút hiệu của cô Thu Vân. Thu Vân học một lớp với bà chị họ Nguyễn Thị Xuyến của tôi. Tôi gặp Thu Vân ở nhà chị tôi ở đường Chi Lăng nhiều lần. Cô không đẹp, khuôn mặt hơi nặng nên bọn em trai của chị tôi cùng thế hệ với cô lúc ấy ít người để ý đến cô. Năm cô đang học đệ Tam hay đệ Nhị gì đó ở trường Đồng Khánh cô có làm một bài thơ nhan đề Quê ngoại (hay Quê mẹ ?) và gởi cho báo Văn nghệ Tiền Phong- một tờ báo lá cải ở Sài Gòn lúc ấy. Bài thơ chưa được đăng thì cô nhận được thư của một người mang tên Hoài Nam - nhân danh một người có quyền ở báo Văn Nghệ Tiền Phong, báo cho cô biết bài thơ cô đã bị vứt sọt rác, nhưng may mắn Hoài Nam nhặt được, đọc thơ thấy tác giả là một cô gái Huế có tâm hồn nên đã đưa bài thơ lên báo. Hoài Nam trở thành ân nhân của Thu Vân. Từ đó Thu Vân và Hoài Nam có quan hệ tình cảm với nhau. Tôi không nhớ rõ vào năm 1959 hay 1960 gì đó, Thu Vân hồ hỡi lên ga Huế đón bạn Hoài Nam ra thăm người yêu ở Huế. Tàu đến, cô hồi hộp vô cùng. Nhưng quái lạ, trong những khách đi tàu xuống ga cô không thấy có người nào để cô có thể nhầm đó là Hoài Nam được cả. Cô nữ sinh Thu Vân thất vọng đứng nép mình bên sân ga. Bỗng nhiên cô thấy có người đàn ông đi sau cùng, tay xách cái túi con, mặt rỗ, tóc đỏ bù xù trước mặt. Thấy Thu Vân, người đó hỏi:” Cô có phải là Thu Vân không ?”. Vượt quá sức tưởng tượng của mình, Thu Vân đáp :” Không. Tôi không phải là Thu Vân”.

Hai người lặng lẽ ra ga, mỗi người đi về mỗi ngã. Thu Vân về nhà ở Bến Ngự. Người khách chính là Hoài Nam về nhà Ngô Đức Chương-một người làm thơ ở với mẹ già tại một ngỏ hẹp của đường Ngô Đức Kế trong Thành Nội. Như chợt có khách thơ, Chương mượn tôi[1] cái giường bố cho Hoài Nam nằm. Hằng ngày Hoài Nam viết truyện ngắn hay làm thơ đăng trên nhật báo Công Dân của Lê Trọng Quát kiếm tiền độ nhựt. Về sau, có lẽ hối hận về hành động phủ phàng của mình, Thu Vân đã tìm đến với Hoài Nam và hai người đã yêu nhau thật sự ngay trong nhà Ngô Đức Chương. Sau đó Thu Vân bỏ học vào nam với Hoài Nam và hai người có hai bút hiệu mới là Trần Dạ Từ và Trần Thy Nhã Ca.

Trong những năm Huế luôn có những phong trào đấu tranh chống Mỹ Thiệu Kỳ, ở Sài Gòn Trần Dạ Từ viết cho mấy tờ báo của Chu Tử thân chính quyền Sài Gòn và có quan điểm chống Cộng rất gay gắt. Trần Dạ Từ có nhiều bài viết xuyên tạc phong trào đấu tranh ở miền Trung, xúc phạm đến nhiều bậc đáng tôn kính ở Huế. Do đó mùa hè năm 1966, Trần Dạ Từ ra Huế tiếp tục nói xấu phong trào miền Trung đã bị anh em Sinh viên Quyết tử chiến lại tại sân bay Phú Bài và buộc anh phải rời miền Trung. Sau đó tôi quá bận với việc đối phó với những lời đe doạ “ làm cỏ” phong trào miền Trung của Thiệu Kỳ, tôi không theo dõi được những bài viết của Trần Dạ Từ về miền Trung nên không rõ anh đã có ý nghĩ về tôi như thế nào. Còn tôi, lúc ấy chuyện quan điểm đấu tranh bất bình với nhau là chuyện bình thường. Không riêng gì những người tay sai Mỹ-Thiệu Kỳ có quan điểm khác chúng tôi, ngay trong hàng ngũ sinh viên tranh đấu chúng tôi vẫn có những chuyện không chịu nhau và sát phạt nhau. Nhưng khi hết tranh đấu rồi lại chơi với nhau bằng tình bè bạn. Những quan điểm trái ngược nhau trong lúc đấu tranh trở thành những kỷ niệm. (Dĩ nhiên những người tôi nói đây thuần túy sinh viên, trí thức, không thuộc phe nhóm đảng phái chính trị nào). Tôi đã nghĩ và đã sống suốt những năm sinh viên như thế.

Sau 1975 về lại Huế, trong các chiến dịch “chống văn hoá độc hại của Mỹ ngụy” (3.1976) nhiều người đặt bài cho tôi viết lên án Nhã Ca. Tôi từ chối. Lý do: Thứ nhất, sách của Nhã Ca có nêu đích danh tôi đâu mà tôi phải lên tiếng. Thứ hai, dù sao Nhã Ca cũng là bạn của chị tôi, nỡ nào tôi lại “đánh” người dưới ngựa bạn của chị mình. Nếu sau giải phóng tôi viết bài đả kích Nhã Ca, ngành nội chính sẽ có thêm căng cứ để kéo dài thời gian học tập của cô lâu hơn. Như vậy nó trái với con người của tôi. Tôi không viết.

Bẵng đi mấy năm không còn có dịp nhắc đến Nhã Ca nữa. Rồi đến một dạo trước năm 1980 (tôi không còn nhớ đích xác năm nào) tôi vào Saigon, được anh Phương H� ở báo Đại Đoàn Kết cho mượn một chiếc xe đạp để đi tìm mua tài liệu cũ về Huế xưa. Nhà anh ở trên tầng cao của cái Building ngay ngã tư Đồng Khởi-Lê Thánh Tôn. Khi gởi xe cho người giữ ở tầng trệt xong, tôi thả bộ dọc đường Đồng Khởi tìm mua cho con anh Phương H� một gói bánh. Cách đó khoảng năm sáu gian phố gì đó tôi thấy có cái quán giải khát vắng vẻ, bên ngoài kê một cái tủ kính bên trên có mấy thẩu bánh (ga-tô hay bánh thuẫn ? ). Nhìn vào trong không thấy khách chỉ có một người đàn bà với nét mặt nặng và buồn, mái tóc thề tóc cắt ngắn ngang vai. Tôi hỏi:” Chị làm ơn bán cho mấy cái bánh!”. Người đàn bà đến mở nắp thẩu lấy bánh cho tôi. Khi tay cô vừa chạm vào mấy cái bánh trong thẩu thì như bị điện giật cô rút tay ra và chụp cái nắp nhôm xuống miệng thẩu kêu một cái cốp rồi quay lưng vô nhà. Tự nhiên tôi kêu lên :
-” Thu Vân ! Tại sao thấy moa, toa lại bỏ đi ?”.
Người đàn bà quay lại nét mặt thảng thốt:
-” Tôi nghe người ta nói anh đang tìm tôi để giết tôi nên sợ quá ...!”.
-” Vì chuyện nhân vật Đắc toa viết trong giải Giải Khăn Sô Cho Huế phải không ?” Tôi hỏi và nói tiếp-” Chuyện của nhân vật Đắc có liên quan gì đến moa mà moa tìm giết toa ! Mà làm sao moa có thể giết toa dễ dàng đến vậy !”

Nghe thế có lẽ Nhã Ca thấy đúng là con người thật của tôi khác với con người cô tưởng tượng sau khi tôi tham gia kháng chiến, cô lấy lại tư thế bình thường. Cô không mời nhưng tôi vẫn vào kéo ghế ngồi. Nhã Ca miễn cưỡng ngồi vào ghế đối diện tiếp tôi. Tôi không gọi cô là Nhã Ca, không nói chuyện sách vở mà gọi cô là Thu Vân và chỉ nói về chuyện chị Xuyến tôi vừa vượt biên qua Úc.

Thu Vân cho biết Hoài Nam đang còn học tập chưa về, cô được về sớm để chăm sóc các con. Hoàn cảnh cô đang rất khó khăn. Khó nhất là không ai có sổ gạo. Đến khi câu chuyện trở nên thân tình tôi hỏi thật cô:
- Vì sao năm 1968 Thu Vân lại viết về nhân vật Đắc để ám chỉ tôi như thế?
Thu Vân trả lời rất thành thật :
- Lúc đó ai cũng nói anh chết rồi, chớ ai ngờ ...
- Sao Thu Vân lại nỡ dựng chuyện ác cho em của một người bạn mình như thế ? Tôi hỏi với giọng trách móc.
- Như anh biết đó - Thu Vân giải thích- viết ký thì phải có những con người bằng xương bằng thịt mình biết rõ ràng mới hay, chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền Bắc vào tôi nào có biết ai đâu ?
- Té ra như vậy.

Sở dĩ có chuyện không tốt ấy xảy ra là vì nhiều người tin tôi đã chết. Hồi tháng 10.1996, trong một bữa cơm thân mật ở nhà chị Tr� My-anh Phạm Doãn Để ở quận 18 Thủ đô Paris tôi kể lại chuyện gặp lại Nhã Ca trên đường Đồng Khởi trên đây, hai anh chị cười vang :
- “Thế mà bao năm nay anh chị cứ trách Xuân !”.
- Vâng, không phải chỉ có anh chị trách mà còn nhiều người nữa.

Người ta nói tôi đã chết không phải vì ghét tôi hay bịa ra để có chuyện nói với những người thích bày chuyện. Ngay những người rất thương tôi “đã có đầy đủ chứng cứ về cái chết” của tôi.

Sau ngày giải phóng 1975, tôi vào Nha Trang thăm một người bạn vong niên ở 12 Bến Chợ - nhà thơ cổ điển Quách Tấn. Lúc đó mắt anh đã yếu, tôi bước vào nhà rồi mà anh vẫn không nhìn ra tôi. Thấy anh ngồi bên cạnh cái bàn thờ kê giữa nhà, tôi mừng quá gọi lớn :
- “Thưa anh, anh vẫn khoẻ chứ ?”.
Quách Tấn ngước mắt nhìn tôi đầy vẻ kinh ngạc :
- “ Ai mà nghe quen quen đó ?”.
-“ Em đây ! Nguyễn ...- người được anh hướng dẫn để nghiên cứu về Bích Khê và Đào Tấn thuở nào đây !”.
Quách Tấn hốt hoảng:
-” Chú Xuân, chú là người hay là ma hiện về đó ?”
Tôi đâm ngạc nhiên :
- ” Em là Xuân đây chứ sao lại là ma !”.
Giọng đoan chắc, Quách Tấn nói tiếp:
-“ Chú chết rồi mà! Tôi đã cúng cơm cho chú nhiều lần rồi mà! “

Tự nhiên tôi khóc. Quách Tấn cũng khóc. Hai anh em ôm nhau. Quách Tấn nói trong nước mắt:
- “Chú chết rồi làm sao chú có thể sống lại và về thăm tôi đây ! Tôi không thể nào hiểu được”.

Sau cái phút bàng hoàng đó, Quách Tấn kể chuyện anh đã nhận được tin tôi đã chết như thế nào :
Năm ấy, sau khi lực lượng giải phóng rút ra khỏi Huế, một người học trò cũ của anh là sĩ quan, trong lúc chỉ huy quân đội dọn dẹp những đổ nát trong Thành Nội, thì phát hiện trong một ngôi nhà sập ở đường Âm Hồn có mấy xác chết đã sình thối, bên cạnh có một tay nải may bằng vải dù bọc cái ví da đựng 200$ bạc Sài Gòn, một Thẻ Sinh viên mang tên Nguyễn Đắc Xuân, một số thư từ, trong đó có thư của l.m.N.N.L. gởi cho Nguyễn Đắc Xuân từ tháng 7.1966 và một xấp nhật ký. Anh sĩ quan nầy vốn là học trò cũ của Quách Tấn nghĩ cái tay nải nầy là của một trong những người đang nằm chết đây. Người sĩ quan liền giấu cái ví và đem về Nha Trang bí mật khoe với thầy. Biết chuyện ấy Quách Tấn đã khóc và không dám nói với người học trò cái tay nải nầy là của chính một người bạn vong niên của mình. Quách Tấn giấu gia đình dẹp một góc bàn thờ bên cạnh chỗ anh đang ngồi hôm nay đặt một chén cơm cúng tôi. Kể đến đó anh lại ôm tôi :
-“ Không ngờ chú vẫn sống và nhớ vào thăm tôi. Đời sao mà có chuyện lạ kỳ đến vậy ! Làm sao chú có thể sống được, chú kể cho anh nghe coi !”.

Nghe đến đó tôi hiểu ra ngay. Chuyện thật đơn giản.
Hôm đó có lẽ quân giải phóng đã chiếm Huế trên mười ngày rồi. Suốt ngày làm việc, đêm ngủ dưới hầm đất, thân thể chúng tôi đứa nào cũng bẩn như hủi. Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng tôi theo chân cô Đoan Trinh - con cụ Nguyễn Đoá, về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn xin nước giếng tắm. Tôi mới vào phòng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc lưng treo lên cửa thì pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt. Nhà cụ Đoá sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương nặng. Tôi hoảng hốt chui ra khỏi nhà chạy thụt mạng vào phía Đại Nội. Và từ đó chiến trường quá ác liệt, tôi không còn có dịp trở lại kiệt 2 Âm Hồn để tìm cái tay nải nữa. Không ngờ nó đã văng đến cạnh một người nào đó đã chết và cuối cùng lọt vào tay người sĩ quan học trò cũ của anh Quách Tấn.
Quách Tấn ở tận Nha Trang Khánh Hòa mà còn biết chuyện tôi đã “chết “ cụ thể đến thế huống chi Nhã Ca lúc đó đang ở Huế ? Và không riêng gì Nhã Ca, có một sinh viên lúc ấy tưởng tôi “chết” thật đã ung dung “mượn” cái luận văn tốt nghiệp của tôi ở Đại học Sư phạm Huế về Hát Bội để chế biến lại làm luận văn Cao học của mình và vẫn được chấm đậu như thường. Sau 1975, gặp tôi ở trường Âm nhạc Huế, anh Hoàng Hữu Pha- người anh con ông bác ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo cho tôi biết chuyện ấy, không những tôi không buồn mà ngược lại tôi đã bảo anh Pha :
-” Tôi không còn cần cái luận văn ấy nữa, có người đã biết sử dụng nó như thế cái công làm luận văn của tôi không đến nỗi không có ích”.
Cuộc đời tưởng đã chết mà lại sống, ôi có gì quý hơn nữa đâu !

Nhân đây tôi cũng ghi lại chuyện anh T.M.T. gặp tôi trong Tết Mậu thân. T.M.T. là một sinh viên hoạt động rất tích cực khi thành lập Đoàn sinh viên Quyết tử. Trong 3 đại đội của Đoàn, T.M.T. làm đại đội trưởng Đại đội 1. Đại đội nầy vừa “ra trường Văn Thánh” là vào Đà Nẵng hoạt động ngay. Tôi phụ trách đoàn nên phải ở lại Huế tiếp tục huấn luyện cho Đại đội 2 và 3. Đại đội 1 có một tiểu đội “tác động tinh thần” phụ trách phát thanh, báo chí. Phần lớn những ngưòi trong tiểu đội là bạn thân tôi và về sau tôi được biết nhiều người trong tiểu đội là cơ sở của giải phóng.

Một buổi chiều đang ở Đông H� tôi được anh Lý Văn Nghiên (sinh viên Hán Học) điện thoại gọi tôi vào để giải quyết khó khăn của Đại đội. Tôi vào ngay Đà Nẵng, tôi đến “bản doanh” của Đại đội tại trường Bồ Đề, T. đi vắng, anh em phản ảnh cho biết mấy hôm nay không hiểu sao chiều nào T. cũng say và có nhiều hành vi khó hiểu. Ví dụ như trong một đêm anh em đang ngủ, T. cho người lăn một cái thùng phuy rỗng trên đường Quang Trung ầm ầm, rồi hô hoán là “xe tăng địch”, gọi anh em dậy xả súng bắn tơi bời, làm náo động cả Thành phố Đà Nẵng. Lực lượng ly khai ở Đà Nẵng (do đại tá Đàm Quang Yêu, thiếu tá Tôn Thất Tương, thiếu tá Tôn Thất Trai đứng đầu) lên án sinh viên Quyết tử làm loạn, đòi giải giới sinh viên. Tôi mời họp Đại đội ở cái phòng đầu tiên của dãy lầu xây thẳng góc với đường Quang Trung. Họp được một lúc thì T. chân thấp chân cao về. Thấy tôi đang ngồi ở bàn thầy giáo chủ trì cuộc họp, T. rút dao găm đeo bên hông ném thẳng vào mặt tôi, anh em đội viên hét lên, tôi cúi đầu kịp và cây dao oan nghiệt cắm sâu vào cái bảng đen sau lưng tôi. Anh em bắt T. giam lại và bầu Lý Văn Nghiên thay T. làm Đại đội trưởng. Sau đó Lý Văn Nghiên đưa Đại đội vào Tam Kỳ rồi Quảng Ngãi hoạt động. Hôm Đại đội từ Quảng Ngãi về, T. đến Tổng hội sinh viên đòi phục chức Đại đội trưởng. T. doạ sẽ bắn chết những ai không nghe lời T. Dĩ nhiên là chẳng có ai sợ và cũng chẳng có ai nghe theo lời T. Từ đó T. trở thành một người đối lập với sinh viên tranh đấu, sinh viên làm gì T. cũng tìm cách quậy phá. Một buổi tối sinh viên tuyệt thực ở bùng binh Morin, để bớt căng thẳng chúng tôi tổ chức hát và ngâm thơ. Tôi đọc một bài thơ mới. Khi mới đọc đến câu:
“ Đã bảy lần tham gia tranh đấu
Bảy lần phải đổ máu, mồ hôi
Dân tộc nầy chưa có hòa bình,
tôi vẫn còn tranh đấu mãi không thôi ...”

Đang nằm với anh em sinh viên tuyệt thực, T.liền đứng dậy rút súng lục chĩa sau lưng tôi:
-” Không tranh đấu nữa, câm mồm ngay không thôi tau bắn nát óc !”.

Thật kinh khủng. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn cho rằng T. không được làm Đại đội trưởng nên bất mãn, uống rượu say làm bậy thôi. Khi cuộc tranh đấu bị đàn áp, T. ở lại không bị hề hấn gì trong lúc nhiều sinh viên chỉ tham gia tranh đấu sơ sơ cũng đều bị tù đày. Thế mới biết T. là người của ai. Những người am hiểu tình hình đảng phái ở Huế lúc đó cho tôi biết T. là đảng viên đảng Đại Việt, anh ta được chỉ đạo tham gia tranh đấu để loại trừ ảnh hưởng của Giải phóng và lái phong trào theo đường lối chính trị của đảng Đại Việt. Đến khi không lái được thì quay qua phá hoại. Chuyện đó cũng dễ hiểu. Trong những năm trước đã xảy ra một số trường hợp tương tự như thế rồi. Sau khi chúng tôi lên rừng, T. bộc lộ rõ ý đồ chính trị của mình, anh lên án chúng tôi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Đến tết Mậu thân, hình như đến ngày mồng ba mồng bốn gì đó, đội công tác thanh niên chúng tôi đang đào hầm trú ẩn cá nhân trước sân một ngôi nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn, vào lúc xế chiều, có người dẫn độ T. vào gặp tôi. Thấy tôi đang đứng trước thềm nhà, T. hồ hỡi phấn khởi giang hai tay đến ôm tôi và nói:
- “ Bọn tự vệ bắt mình, mình nói là bạn với X. nên họ đưa mình qua đây !”
Nghe T. nói như vậy anh tự vệ dẫn độ T. giang ra. T. đặt tôi vào một hoàn cảnh rất khó xử. Giả như tôi không giận T. mà sau lưng tôi là anh Hoàng Minh Loan- Thành ủy viên, chính trị viên của đội công tác thanh niên, một người rất am hiểu tình hình tranh đấu ở nội thành và chung quanh tôi có nhiều sinh viên đã biết rất rõ hành vi chống đối sinh viên tranh đấu của T., tôi cũng không thể tỏ ý thân thiện với T. lúc nầy được. Nếu tôi không thể hiện rõ về lập trường quan điểm chính trị của mình tôi sẽ bị tình nghi “quan hệ với địch” và sẽ bị tống cổ lên rừng ngay, hậu quả sẽ không lường hết được. Bản năng tự vệ trong tôi buột tôi phải la lên :
- “ Tao mà là bạn của mày được sao !”- Tôi chỉ cái hầm cá nhân đang đào dang dở trước sân nói tiếp- “ Chuyện chi còn có đó. Xuồng ngồi dưới cái hầm cá nhân đó !’.

Trong cuộc chiến tranh nhân dân vừa qua, đảng viên của những đảng phái chống Cộng nếu họ bị bắt giữa lúc giao tranh thì họ khó lòng sống được. Trường hợp của T.M.T. dễ chết như không. Nhưng không hiểu sao, anh Hoàng Minh Loan lại giao T. cho tôi quản lý giống như các anh đã giao hoạ sĩ Lê Văn T� i cho Đội công tác thanh niên ngay lúc lực lượng giải phóng mới chiếm được Huế. Các anh muốn thử thách người quần chúng Phậ tử nầy chăng ? Thật khó cho tôi.

Cuối cùng tôi đã có một giải pháp. Bên cạnh chỗ tôi đóng quân có nhà của ông nhạc nhà báo Vĩnh Tháp. Vĩnh Tháp ở Vỹ Dạ lên nhà vợ ăn tết gặp lúc chiến sự xảy ra anh tham gia với chúng tôi. Tôi đưa cho T.M.T. một xấp giấy manh và bảo qua nhà anh Vĩnh Tháp ngồi tường thuật những hành động phá hoại phong trào sinh viên của T. T.vâng lời. Chúng tôi gởi cho Vĩnh Tháp một ít tiền lo chuyện ăn uống cho T. Nhưng sau đó chúng tôi bị căn cứ Mang Cá rót đạn cối vào nhà, phải di chuyển ngay chỗ ở. Và tôi cũng không còn có dịp gặp lại T. nữa. Sau Tết Mậu thân nhiều tháng, chúng tôi bị Mỹ rượt chạy lên tận miền tây ở biên giới Lào, mất hẵn liên lạc với Huế cho nên tôi cũng không biết tình hình Huế sau khi chúng tôi trở lại rừng xanh ra sao. Hơn một năm sau tôi mới nghe tin T. đã chết trong tết Mậu thân.
Những khi gặp những người quen biết T., chúng tôi thường đưa ra mấy giả thiết về trường hợp T. chết như sau: Một : sau khi khu vực nhà ông nhạc của anh Vĩnh Tháp bị bom đạn, T. đã trốn ra bên ngoài rồi bị bom đạn lạc giết chết ở dọc đường, hai : T. ra ngoài chạy loạng quạng bị tự vệ hay bộ đội bắn chết; ba: cũng có thể, sau khi T.được tôi gởi qua nhà anh Vĩnh Tháp, những người lãnh đạo lực lượng vũ trang trong Thành nội lúc ấy cho bắt lại và “giải quyết” theo lời phán xét của ông thần chiến tranh. Rất tiếc sau nầy có nhiều lần gặp lại anh Vĩnh Tháp, tôi hỏi anh lúc ấy T. đã chết như thế nào, anh bảo : “Lúc đó ác liệt quá mình mình cũng không còn nhớ.” (Hiện nay anh Vĩnh Tháp còn khoẻ mạnh ở Vỹ Dạ Huế).

Tôi thoát ly đúng vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất. Có biết bao đồng chí đồng đội của tôi đã ngã xuống nhưng ít có cơ hội để tôi viết về họ. Cái chết của T. cũng thế. Nhưng vì Nhã Ca đã viết không đúng với sự thực, nếu tôi không viết thêm đoạn nầy thì người đọc trong các thế hệ sau sẽ khó có được một tư duy đúng đắn về sự kiện nầy.

Lịch sử rất khách quan, không ai vu khống được và cũng không xuyên tạc được. Những ai cố tình xuyên tạc, vu khống lịch sử là tự mình gởi lại tương lai một tội lỗi không thể bào chữa được.

Nguyễn Đắc Xuân

ĐDTB, ngày 17/6/06
Trích ĐDTB
NDVN, ngày 28/9/06



Photobucket
Quí Vị thích xem tin tức mới cập nhật mỗi ngày, hoặc nghe đọc tài liệu tham khảo, xin hãy nhấn ▼vào Websites dưới đây
www.tiengnoitudodanchu.org
www.huyenthoai.org

Cư ngụ tại Việt Nam muốn vượt tường lửa nhanh, hãy nhấn vào Website dưới đây. Kế tiếp đánh địa chỉ Bạn muốn tìm

ợt Tường Bức Lửa (Anti Firewall ▼)

www.anonymouse.org/anonwww.html

Khi đã mở Website vượt tường lửa ra xong, bạn hãy copy Web nào muốn tìm, hoặc đánh địa chỉ vào trong cái khung nhỏ của hàng chữ Enter website address

Ví dụ: www.rfa.org/vietnamese

Hoặc copy giống dạng tương tự Link này

Sau cùng nhấn Chuột vào hàng chữ nằm về phía bên tay phải, giống hàng dưới đây

Suft Anonymously

* Quí vị thích xem tiếp thì hãy nhấn chuột vào 1 trong 3 chữ:

Newer Post, Home, Older Posts

Blog Archive