* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Nụ cười Bùi Thị Minh Hằng - Trở về từ chốn lao tù
Sau 6 tháng bị giam cầm, bà Bùi Thị Minh Hằng cuối cùng đã được trả tự do, vào chiều ngày 29 tháng 4-2012.
Rất vui mừng
Sau nhiều tháng trời đấu tranh đòi công lý, vào chiều ngày 29 tháng 4, bà Bùi Thị Minh Hằng đã được trả tự do và về đến nhà mình tại phường 4, thành phố Vũng Tàu. Nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại từ nhà của mình, bà Bùi Hằng cho biết cảm nghĩ của mình khi được đoàn tụ với người thân và gia đình:
“Rất vui mừng vì được thấy tình cảm của nhiều người gửi gắm vào mình. Bản thân chị thấy không có gì, vì bản thân vất vả thì không có gì nhưng chị cảm thấy lo lắng hơn trước hành xử của chính quyền, vì họ không muốn thay đổi theo pháp luật.”
Vào chiều ngày thứ 7, 28 tháng 4, chị Hằng được đưa khỏi trung tâm giáo dục Thanh Hà, Vĩnh Phúc, nơi giam giữ chị suốt 6 tháng qua. Chị Hằng cho biết:
“Hôm thứ 7, họ vào cơ sở chị thì chị vừa đi khám bệnh ở trạm xá về. Họ chộp lấy chị, họ bắt, ấn chị lên xe, xích chân xích tay tống lên xe, rồi đi bằng đường bộ, đường mòn Hồ Chí Minh.”
Sau nhiều tháng bị giam cầm, rồi tuyệt thực trong trại, sức khỏe của chị Hằng hiện tại đã sút giảm hơn nhiều so với trước khi bị bắt. Chị cho biết chị đã bị mất đến 15 kg chỉ sau 6 tháng. Cũng trong thời gian bị giam giữ, chị Hằng đã có lần cắt tay tự vẫn để phản đối cách đối xử bất công trong trại. Chị cho chúng tôi biết:
“Chị cắt tay vì những ngày trong đấy chị bị chèn ép quá sức. Chị nhịn ăn thì họ cũng chẳng làm gì, họ cũng kệ. Đến ngày hôm đó, chị quá bức xúc thì chị có thực sự suy nghĩ, thế là chị tự vẫn. Chị thấy có lưỡi dao lam của chị em người ta để đấy cho nên chị làm những điều như thế.”
Chị Hằng cho biết cho đến lúc này chị vẫn không biết lý do chính thức nào được đưa ra cho việc trả tự do cho chị. Luật sư Hà Huy Sơn, là người đã đại diện cho chị Hằng trong thời gian vừa qua, cho biết quyết định trả tự do mà chị Hằng nhận trong trại không nói gì đến lý do chị được thả vào lúc này.
Tuy nhiên, báo An Ninh Thủ Đô ngày 28 tháng 4 vừa qua có bài cho biết chị Bùi Hằng được trả tự do vì thực hiện chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước nhân dịp lễ 30 tháng 4. Tờ báo này viết ‘thực hiện các chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn 30 tháng 4 và 1 tháng 5, xét đơn đề nghị của gia đình, xét điều kiện hoàn cảnh cụ thể của trại viên Bùi Thị Minh Hằng và sau khi trao đổi, thống nhất với chính quyền địa phương nơi cư trú (phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), cơ sở giáo dục Thanh Hà đã quyết định bàn giao Bùi Thị Minh Hằng cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình tiếp tục giáo dục Bùi Minh Hằng trở thành công dân tốt’.
Bị bắt vì chống Trung Quốc
Chị Bùi Hằng là người đã tích cực tham gia vào các cuộc biểu tình ôn hòa phản đối hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông hồi năm ngoái tại Hà Nội và Sài Gòn. Chị bị bắt vào tháng 11 năm 2011 sau khi tham gia một cuộc biểu tình quy mô nhỏ tại Sài Gòn. Sau đó chị bị đưa ra cơ sở giáo dục Thanh Hà và bị giam giữ cho đến ngày 28 tháng 4 vừa qua mà không có một hình thức xét xử nào.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 2011, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định số 5225 về chị Bùi Hằng. Trong quyết định này, chính quyền thành phố Hà Nội xác định chị Bùi Hằng đã gây rối trật tự công cộng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Quyết định cũng coi chị là người không có nơi cư trú nhất định.
Trong thời gian bị giam giữ ở trại Thanh Hà, chị Hằng đã hai lần viết đơn khiếu nại và mới đây quyết định viết đơn khởi kiện quyết định bắt giam mà chị cho là trái pháp luật của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Tuy nhiên con trai của chị Bùi Hằng cho biết trại Thanh Hà đã làm khó dễ trong quá trình chị làm đơn kiện này.
Luật sư Hà Huy Sơn cho chúng tôi biết, mặc dù đã được thả nhưng chị Bùi Hằng vẫn muốn tiếp tục quá trình khởi kiện.
Việt Hà, phóng viên RFA
2012-04-29
Xem nhiều bài về tháng 4 đen ở link nầy: http://danlambaovn.blogspot.com
Rất vui mừng
Sau nhiều tháng trời đấu tranh đòi công lý, vào chiều ngày 29 tháng 4, bà Bùi Thị Minh Hằng đã được trả tự do và về đến nhà mình tại phường 4, thành phố Vũng Tàu. Nói chuyện với chúng tôi qua điện thoại từ nhà của mình, bà Bùi Hằng cho biết cảm nghĩ của mình khi được đoàn tụ với người thân và gia đình:
“Rất vui mừng vì được thấy tình cảm của nhiều người gửi gắm vào mình. Bản thân chị thấy không có gì, vì bản thân vất vả thì không có gì nhưng chị cảm thấy lo lắng hơn trước hành xử của chính quyền, vì họ không muốn thay đổi theo pháp luật.”
Vào chiều ngày thứ 7, 28 tháng 4, chị Hằng được đưa khỏi trung tâm giáo dục Thanh Hà, Vĩnh Phúc, nơi giam giữ chị suốt 6 tháng qua. Chị Hằng cho biết:
“Hôm thứ 7, họ vào cơ sở chị thì chị vừa đi khám bệnh ở trạm xá về. Họ chộp lấy chị, họ bắt, ấn chị lên xe, xích chân xích tay tống lên xe, rồi đi bằng đường bộ, đường mòn Hồ Chí Minh.”
Sau nhiều tháng bị giam cầm, rồi tuyệt thực trong trại, sức khỏe của chị Hằng hiện tại đã sút giảm hơn nhiều so với trước khi bị bắt. Chị cho biết chị đã bị mất đến 15 kg chỉ sau 6 tháng. Cũng trong thời gian bị giam giữ, chị Hằng đã có lần cắt tay tự vẫn để phản đối cách đối xử bất công trong trại. Chị cho chúng tôi biết:
“Chị cắt tay vì những ngày trong đấy chị bị chèn ép quá sức. Chị nhịn ăn thì họ cũng chẳng làm gì, họ cũng kệ. Đến ngày hôm đó, chị quá bức xúc thì chị có thực sự suy nghĩ, thế là chị tự vẫn. Chị thấy có lưỡi dao lam của chị em người ta để đấy cho nên chị làm những điều như thế.”
Chị Hằng cho biết cho đến lúc này chị vẫn không biết lý do chính thức nào được đưa ra cho việc trả tự do cho chị. Luật sư Hà Huy Sơn, là người đã đại diện cho chị Hằng trong thời gian vừa qua, cho biết quyết định trả tự do mà chị Hằng nhận trong trại không nói gì đến lý do chị được thả vào lúc này.
Tuy nhiên, báo An Ninh Thủ Đô ngày 28 tháng 4 vừa qua có bài cho biết chị Bùi Hằng được trả tự do vì thực hiện chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước nhân dịp lễ 30 tháng 4. Tờ báo này viết ‘thực hiện các chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn 30 tháng 4 và 1 tháng 5, xét đơn đề nghị của gia đình, xét điều kiện hoàn cảnh cụ thể của trại viên Bùi Thị Minh Hằng và sau khi trao đổi, thống nhất với chính quyền địa phương nơi cư trú (phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), cơ sở giáo dục Thanh Hà đã quyết định bàn giao Bùi Thị Minh Hằng cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình tiếp tục giáo dục Bùi Minh Hằng trở thành công dân tốt’.
Bị bắt vì chống Trung Quốc
Chị Bùi Hằng là người đã tích cực tham gia vào các cuộc biểu tình ôn hòa phản đối hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông hồi năm ngoái tại Hà Nội và Sài Gòn. Chị bị bắt vào tháng 11 năm 2011 sau khi tham gia một cuộc biểu tình quy mô nhỏ tại Sài Gòn. Sau đó chị bị đưa ra cơ sở giáo dục Thanh Hà và bị giam giữ cho đến ngày 28 tháng 4 vừa qua mà không có một hình thức xét xử nào.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 2011, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định số 5225 về chị Bùi Hằng. Trong quyết định này, chính quyền thành phố Hà Nội xác định chị Bùi Hằng đã gây rối trật tự công cộng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Quyết định cũng coi chị là người không có nơi cư trú nhất định.
Trong thời gian bị giam giữ ở trại Thanh Hà, chị Hằng đã hai lần viết đơn khiếu nại và mới đây quyết định viết đơn khởi kiện quyết định bắt giam mà chị cho là trái pháp luật của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Tuy nhiên con trai của chị Bùi Hằng cho biết trại Thanh Hà đã làm khó dễ trong quá trình chị làm đơn kiện này.
Luật sư Hà Huy Sơn cho chúng tôi biết, mặc dù đã được thả nhưng chị Bùi Hằng vẫn muốn tiếp tục quá trình khởi kiện.
Việt Hà, phóng viên RFA
2012-04-29
Xem nhiều bài về tháng 4 đen ở link nầy: http://danlambaovn.blogspot.com
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bui-hang-released-vha-04292012121825.html
28 April, 2012
Video: Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu biểu tình tại thủ đô Canberra
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Canberra, ngày 28-04-201. Hơn 2000 đồng hương khắc nơi từ Sydney, Melbourne, Adelaide, Perth Queensland và địa phương Canberra tập trung trước toà đại sứ Việt Công ở Canberra để tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư. Các vị đại diện các tiểu bang đã lên án CSVN đàn áp người dân, tước đoạt quyền làm người và dâng giang sơn gấm vóc cho giặc Tàu.
Năm nay có sự hiện diện của anh Trương Quốc Việt đã toạ kháng trước toà đại sứ VC từ thứ Hai (23-04-12) cho đến nay và anh sẽ tiếp tục toạ kháng ở đây để đòi lại căn nhà nhỏ cho anh và căn nhà lớn cho người dân Việt.
Sau buổi lễ Tưởng niệm, đồng hương, các vị chính giới, dân biểu tiểu bang và liên bang Úc Đại Lợi và đại diên của Hội Chiến Binh Úc Đại Lợi đến Đài Chiến Sĩ Úc Việt trên đường ANZAC Parade ở Canberra để tưởng niệm 50 năm Quân đội Hoàng Gia Úc tham chiến vào chiến trường Việt Nam để bảo vệ nền tự do của miền Nam Việt Nam.
Rất đặc biệt năm nay, khu thương mại Sài Gòn Place ở Bankstown, Sydney treo cờ Vàng để tưởng niện ngày Quốc Hận
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/30-04/2056-2056
Sài Gòn Place treo cờ Vàng Tưởng niệm 30 tháng Tư
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Sài Gòn Place, trung tâm thương mại của Cộng Đồng Người Việt ở Bankstown, Sydney - Úc Châu treo cờ Vàng để tưởng niệm Ngày 30 tháng Tư.
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Sài Gòn Place, trung tâm thương mại của Cộng Đồng Người Việt ở Bankstown, Sydney - Úc Châu treo cờ Vàng để tưởng niệm Ngày 30 tháng Tư.
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/30-04/2055-2055
27 April, 2012
Video: Trông đợi gì ở đối thoại nhân quyền Việt-Úc?
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Cảnh công an bắt người tùy tiện vẫn diễn ra khá phổ biến tại Việt Nam. Hình: Công an chận bắt Blogger Paulus Lê Sơn trên đường phố Hà Nội hôm 03-08-2011
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Cảnh công an bắt người tùy tiện vẫn diễn ra khá phổ biến tại Việt Nam. Hình: Công an chận bắt Blogger Paulus Lê Sơn trên đường phố Hà Nội hôm 03-08-2011
Từ ngày 26 đến 27 tháng 4, Việt Nam và Úc sẽ có đối thoại nhân quyền song phương thường niên lần thứ 9 tại Hà Nội. Liệu có thể trông đợi gì ở cuộc đối thoại nhân quyền lần này giữa hai nước?
Các quyền tự do căn bản
Tiếp theo sau đối thoại chiến lược về ngoại giao và quốc phòng giữa Việt Nam và Úc vào tháng 2, có thể nói cuộc đối thoại song phương về nhân quyền giữa hai nước được tổ chức từ ngày 26 đến 27 tháng 4 là một sự kiện quan trọng khác khiến nhiều người quan tâm.
Từ Huế, Linh mục Phan Văn Lợi lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do về mong đợi của ông đối với đối thoại nhân quyền lần này:
“Tôi mong rằng khi chính quyền úc đối thoại với nhà cầm quyền Việt Nam thì phải luôn nhớ rằng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là độc tài và bao giờ họ cũng tìm cách duy trì quyền độc tài của họ trên đất nước Việt Nam.
Vì vậy phải làm sao bắt buộc nhà cầm quyền Việt Nam khi đối thoại nhân quyền thì phải thực sự trả lại nhân quyền và dân quyền bằng hành động cụ thể ví dụ như bỏ điều 4 hiến pháp, trả lại quyền sở hữu đất đai cho người dân, quyền tự do tôn giáo, tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự do đi lại và nhiều quyền khác. Nếu không buộc được nhà cộng sản làm điều đó thì tất cả các cuộc đối thoại chỉ là giữa những người điếc mà thôi.”
Linh mục Phan Văn Lợi là người đã nhiều năm lên tiếng công khai phản đối chính sách mà ông cho là đàn áp nhân quyền và tự do tôn giáo của chính quyền Việt Nam.
Nhân dịp này, vào ngày 25 tháng 4, tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế, Human rights watch, đã có một bản ghi nhớ gửi tới chính phủ Úc, thúc giục chính phủ nước này phải tạo sức ép lên chính phủ Việt Nam về vấn đề nhân quyền.
Các vấn đề mà Human Rights Watch đưa ra bao gồm việc thả ngay lập tức các tù nhân chính trị, chấm dứt các biện pháp hạn chế tự do bày tỏ ý kiến, lập hội và biểu tình, tự do tôn giáo.
Ngày càng xuống dốc?
Phát biểu với Đài Á Châu Tự Do, ông Phil Robertson, Phó giám đốc đặc trách Châu Á của tổ chức này cho biết:
“Lần này chúng tôi muốn đưa cho chính phủ Úc một báo cáo đầy đủ từ phía chúng tôi vì chúng tôi thấy tình hình nhân quyền tại Việt Nam đang xuống dốc. Và vì vậy điều quan trọng là chính phủ các nước có đối thoại nhân quyền với Việt Nam phải chuyển được thông điệp của họ tới nhà cầm quyền Hà Nội rằng những vi phạm nhân quyền tại Việt nam cần phải chấm dứt.”
Theo Human rights watch, chỉ riêng trong quý 1 năm 2012, việt Nam đã bắt giữ 12 người vì họ đã thực hiện những quyền căn bản của mình một cách ôn hòa.
Năm 2011, chính quyền Việt Nam đã bỏ tù ít nhất 33 người hoạt động nhân quyền và các blogger bởi những người này đã thực hiện các quyền chính trị và tự do tín ngưỡng của mình.
Tuy nhiên theo chuyên gia về Việt Nam, Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia, thì đối thoại lần này giữa hai nước sẽ không có điểm gì đặc biệt như nhiều người có thể mong đợi. Ông nói:
“Theo tôi thì đối thoại này cũng chỉ như mọi đối thoại khác trước đó. Tôi chưa thấy bất cứ ai, hay hành động cụ thể nào từ chính phủ Úc mà cụ thể là ngoại trưởng Úc tỏ ra thật sự quan ngại về vấn đề nhân quyền đang xuống dốc tại Việt nam, đặc biệt là đối với các blogger và các nhà hoạt động xã hội.”
Nhân quyền và quan hệ Việt-Úc
Việt Nam và Úc đã bắt đầu các đối thoại song phương về nhân quyền từ năm 2002 và được tổ chức thường niên.
Năm 2006, đối thoại này được nâng lên một mức cao hơn, theo đó Úc cung cấp cho Việt Nam các trợ giúp về kỹ thuật như đào tào nhân lực cho đội ngũ các sĩ quan an ninh Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng đã cử các đoàn sang thăm các nhà tù của Úc để tìm hiểu về cách đối xử với các tù nhân tại Úc.
Theo chuyên gia Carl Thayer thì đối thoại nhân quyền hai nước mới chỉ dừng ở đó, và Úc chỉ thực sự can thiệp khi có vấn đề liên quan đến công dân Úc mà thôi:
“Tôi chưa từng thấy ngoại trưởng Úc hay chính phủ Úc đưa vấn đề nhân quyền Việt Nam công khai trước quốc hội Úc. Theo tôi Úc chỉ can thiệp khi nào có liên quan trực tiếp đến công dân Úc.”
Vào năm 2010, một người công dân Úc gốc Việt là bà Võ Hồng, đảng viên đảng Việt Tân tại Mỹ, đã bị chính quyền Việt Nam bắt giữ khi tham gia biểu tình ôn hòa và phát truyền đơn phản đối Trung Quốc tại Việt Nam.
Bà bị phía Việt Nam giam giữ 10 ngày và được trả tự do sau đó nhờ sự can thiệp từ bộ ngoại giao Úc.
Năm 2009, hai nước Úc và Việt Nam ký hiệp định đối tác toàn diện. Với hiệp định này mối quan hệ hợp tác giữa hai nước đã được nâng lên một tầm cao mới, mà trong đó nhân quyền chỉ là một yếu tố chưa hẳn đã là quan trọng nhất.
Phát biểu trong một cuộc họp báo với bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh vào tháng 3 vừa qua nhân chuyến thăm Việt Nam, tân ngoại trưởng Úc, Robert Carr cho biết ông xác định Việt Nam là nước ưu tiên trong danh sách các nước có quan hệ đối tác.
Ông cũng tỏ ra vui mừng với con số 25,000 du học sinh Việt Nam đang du học tại Úc.
Về quan hệ thương mại, Úc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 10 và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều trong năm 2011 đã đạt 6 tỷ đô la, tăng hơn 12% so với năm trước đó. Ngoại trưởng Úc khẳng định Úc muốn phát triển hơn nữa quan hệ thương mại với Việt Nam.
Theo chuyên gia Carl Thayer thì những tiềm năng về thương mại và giáo dục đang lấn án vấn đề nhân quyền: “Tôi nghĩ vẫn đề nhân quyền đã bị lấn át bởi các vấn đề khác như thương mại và sinh viên Việt Nam du học tại Úc.”
Điều này cũng được thể thiện trong quan điểm của các chính phủ Úc trước kia. Cựu ngoại trưởng Úc, Alexander Downer khi còn đương nhiệm đã từng nói rằng Úc không muốn nói chuyện với Việt Nam qua một cái loa phóng thanh.
Và cho đến giờ chính phủ Úc cũng vẫn khẳng định mong muốn của họ là không muốn để quan hệ hai nước trở thành con tin cho các vấn đề khác.
Việt Hà, phóng viên RFA
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.rfa.org/vietnamese
25 April, 2012
Video: Phỏng vấn ông Sĩ Nguyễn về việc hủy bỏ show tại Đức ngày 30-4-2012
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Tin Garden Grove - Trong những ngày qua đã có những tin tức về việc một số các ca sĩ của Trung tâm Asia nhận lời sang trình diễn tại Âu châu vào cuối tháng 4, với một show tại Berlin Đức quốc diễn ra đúng vào ngày 30 tháng 4 gây nhiều tranh cãi.
Để tìm hiểu thêm về việc này, thông tín viên Bích Châu của SB-TN đã thực hiện một cuộc phỏng vấn đặc biệt với người tổ chức là ông Sĩ Nguyễn của SGN Entertainment tại thành phố Minneapolis tiểu bang Minnesota.
Để rộng đường dư luận, mời quý vị theo dõi nguyên văn cuộc phỏng vấn như sau (video 10 phút
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Tin Garden Grove - Trong những ngày qua đã có những tin tức về việc một số các ca sĩ của Trung tâm Asia nhận lời sang trình diễn tại Âu châu vào cuối tháng 4, với một show tại Berlin Đức quốc diễn ra đúng vào ngày 30 tháng 4 gây nhiều tranh cãi.
Để tìm hiểu thêm về việc này, thông tín viên Bích Châu của SB-TN đã thực hiện một cuộc phỏng vấn đặc biệt với người tổ chức là ông Sĩ Nguyễn của SGN Entertainment tại thành phố Minneapolis tiểu bang Minnesota.
Để rộng đường dư luận, mời quý vị theo dõi nguyên văn cuộc phỏng vấn như sau (video 10 phút
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://sbtn.net/
& http://hoilatraloi.blogspot.com
& http://hoilatraloi.blogspot.com
24 April, 2012
Video: Hàng ngàn công an, bộ đội cưỡng chế đất ở Hưng Yên & Truyền đơn đã được rãi ở một công viên Tiền Giang
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
* Nguồn Video Link chữ màu xanh nầy: http://www.rfa.org/vietnamese
& http://danlambaovn.blogspot.com
* Nguồn tin: http://hoilatraloi.blogspot.com
23 April, 2012
Video of RFA & Công dân VN tọa kháng trước toà đại sứ VC tại Canberra, thủ đô Úc
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
“Xin hãy trả căn nhà nhỏ cho gia đình tôi và căn nhà lớn cho Dân tộc tôi”
“Với tấm biển nhỏ đeo trước ngực này, anh Trương Quốc Việt, một người trẻ, công dân VN, người đã bị CSVN cướp đất, cướp nhà, đánh dập và bỏ tù, đã nói lên được phần nào những gì đã và đang xãy ra cho người dân và đất nước VN hiện nay” Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch CĐNVTD-UC đã lên tiếng về một sự kiện lịch sữ vừa mới xãy ra trước Toà Đại sứ CSVN tại Canberra sáng sớm ngày 23-4-2012 hôm nay.
Vào 8 giờ sáng ngày 23-4-2012, một thanh niên VN từ VN sang Úc theo diện “Business visa” đã bắt đầu một cuộc biểu tình đơn độc trước cổng của Đại Sứ Quán VN tại thủ đô Canberra của Úc Châu để đòi công lý và đòi trả nhà và đất mà nhà nước CSVN đã cưỡng chiếm của gia đình anh vào năm 2009. Đây là lần đầu tiên một người VN, nạn nhân trực tiếp của hành động cướp nhà, cướp đất trong nước, biểu tình phản đối và lên án những hành động vi phạm nhân quyền của CSVN tại hải ngoại. Ông Phong cho biết.
“Việc cưỡng chiếm và cướp đoạt tài sản và nhà đất không bồi thường hay chỉ bồi thường một cách tượng trưng cho các nạn nhân thuộc thành phần “thấp cổ, bé miệng và nghèo túng” của Đảng và Nhà nước CSVN đã trở thành một chuyện thường ngày và lan tràn trên khắp mọi nơi từ thành thị đến thôn quê tại VN.
Đảng Cộng Sản và nhà cầm quyền CSVN ngày nay đã trở thành và hành xữ như một đảng cướp có toàn quyền sinh sát, cướp đoạt, lên án, bỏ tù bất cứ một người dân nào bất chấp hiến pháp hay luật lệ mà chính họ đã ban ra. Hàng trăm ngàn tài sản, đất đai, ruộng nương của người dân vô tội và của các tôn giáo, thậm chí đến nghĩa địa, nơi chôn mồ mả ông bà của họ đã bị các cấp chánh quyền và giới lảnh đạo đảng CSVN cướp đoạt một cách trái phép hoặc ngang nhiên tịch thu bằng vũ lực dưới những chiêu bài như: “phát triển đô thị, quy hoạch đất đai hay nhà nước trưng thu”. Những ai cưỡng lại hay chống đối đều bị gán cho tội danh “chống người thi hành công vụ” bị đánh đập hay bỏ tù.” Ông Phong nói.
Ông tuyên bố: “Việc một người công dân VN đã phải ngồi phản đối và đòi hỏi công lý trước toà đại sứ của mình ở ngoại quốc như thế này là một bằng chứng hùng hồn về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền CSVN hiện nay. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu ủng hộ hành động can đảm này của anh Trương Quốc Việt và yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải ngưng, ngăn chặn và trả lại những đất đai, tài sản cho những nạn nhân bao gồm cả những tài sản và đất đai của các tôn giáo mà họ đã chiếm đoạt một cách phi pháp và bằng vũ lực từ trước đến nay”.
“Chúng tôi kêu gọi Chính phủ và các vị Dân biểu của Quốc Hội Úc hãy bày tỏ sự quan tâm về trường hợp của anh Trương Quốc Việt nói riêng và tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN nói chung”
Ông Phong kêu gọi toàn thể cộng đồng người Việt tại Úc và những ai quan tâm đến tình trạng vi phạm, đàn áp nhân quyền tại VN trên toàn thế giới hãy đồng loạt tham gia ký vào một Kiến Nghị Thư trên mạng (on-line) đệ trình cho Thượng viện Quốc Hội Úc Châu đòi cải thiện Nhân Quyền tại VN đang do Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu khởi xướng qua địa chỉ: www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn
Hạn chót để ký vào Kiến Nghị Thư này là ngày 17-6-2012.
Mọi chi tiết liên quan đến Thông cáo này, xin liên lạc với ông Nguyễn Thế Phong qua điện thoại số: 0411 756 552
* Source: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/shcd/2039-2039
* Xin Quý Vị hãy nhấn vào hàng chữ xanh dưới đây để xem bản Kiến Nghị Thư bằng 2 ngôn ngữ Việt - Anh và ký ▼Thỉnh Nguyện Thư http://www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn.html
* Nếu gặp trở ngại ▼ xin nhấn vô link dưới theo sự chỉ dẫn ký Kiến Nghị Thư http://www.vcavic.org.au/
* Xem số người đã ký ▼ Thỉnh Nguyện Thư http://www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn/signatures.html
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
“Xin hãy trả căn nhà nhỏ cho gia đình tôi và căn nhà lớn cho Dân tộc tôi”
“Với tấm biển nhỏ đeo trước ngực này, anh Trương Quốc Việt, một người trẻ, công dân VN, người đã bị CSVN cướp đất, cướp nhà, đánh dập và bỏ tù, đã nói lên được phần nào những gì đã và đang xãy ra cho người dân và đất nước VN hiện nay” Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch CĐNVTD-UC đã lên tiếng về một sự kiện lịch sữ vừa mới xãy ra trước Toà Đại sứ CSVN tại Canberra sáng sớm ngày 23-4-2012 hôm nay.
Vào 8 giờ sáng ngày 23-4-2012, một thanh niên VN từ VN sang Úc theo diện “Business visa” đã bắt đầu một cuộc biểu tình đơn độc trước cổng của Đại Sứ Quán VN tại thủ đô Canberra của Úc Châu để đòi công lý và đòi trả nhà và đất mà nhà nước CSVN đã cưỡng chiếm của gia đình anh vào năm 2009. Đây là lần đầu tiên một người VN, nạn nhân trực tiếp của hành động cướp nhà, cướp đất trong nước, biểu tình phản đối và lên án những hành động vi phạm nhân quyền của CSVN tại hải ngoại. Ông Phong cho biết.
“Việc cưỡng chiếm và cướp đoạt tài sản và nhà đất không bồi thường hay chỉ bồi thường một cách tượng trưng cho các nạn nhân thuộc thành phần “thấp cổ, bé miệng và nghèo túng” của Đảng và Nhà nước CSVN đã trở thành một chuyện thường ngày và lan tràn trên khắp mọi nơi từ thành thị đến thôn quê tại VN.
Đảng Cộng Sản và nhà cầm quyền CSVN ngày nay đã trở thành và hành xữ như một đảng cướp có toàn quyền sinh sát, cướp đoạt, lên án, bỏ tù bất cứ một người dân nào bất chấp hiến pháp hay luật lệ mà chính họ đã ban ra. Hàng trăm ngàn tài sản, đất đai, ruộng nương của người dân vô tội và của các tôn giáo, thậm chí đến nghĩa địa, nơi chôn mồ mả ông bà của họ đã bị các cấp chánh quyền và giới lảnh đạo đảng CSVN cướp đoạt một cách trái phép hoặc ngang nhiên tịch thu bằng vũ lực dưới những chiêu bài như: “phát triển đô thị, quy hoạch đất đai hay nhà nước trưng thu”. Những ai cưỡng lại hay chống đối đều bị gán cho tội danh “chống người thi hành công vụ” bị đánh đập hay bỏ tù.” Ông Phong nói.
Ông tuyên bố: “Việc một người công dân VN đã phải ngồi phản đối và đòi hỏi công lý trước toà đại sứ của mình ở ngoại quốc như thế này là một bằng chứng hùng hồn về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền CSVN hiện nay. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu ủng hộ hành động can đảm này của anh Trương Quốc Việt và yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải ngưng, ngăn chặn và trả lại những đất đai, tài sản cho những nạn nhân bao gồm cả những tài sản và đất đai của các tôn giáo mà họ đã chiếm đoạt một cách phi pháp và bằng vũ lực từ trước đến nay”.
“Chúng tôi kêu gọi Chính phủ và các vị Dân biểu của Quốc Hội Úc hãy bày tỏ sự quan tâm về trường hợp của anh Trương Quốc Việt nói riêng và tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN nói chung”
Ông Phong kêu gọi toàn thể cộng đồng người Việt tại Úc và những ai quan tâm đến tình trạng vi phạm, đàn áp nhân quyền tại VN trên toàn thế giới hãy đồng loạt tham gia ký vào một Kiến Nghị Thư trên mạng (on-line) đệ trình cho Thượng viện Quốc Hội Úc Châu đòi cải thiện Nhân Quyền tại VN đang do Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu khởi xướng qua địa chỉ: www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn
Hạn chót để ký vào Kiến Nghị Thư này là ngày 17-6-2012.
Mọi chi tiết liên quan đến Thông cáo này, xin liên lạc với ông Nguyễn Thế Phong qua điện thoại số: 0411 756 552
* Source: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/shcd/2039-2039
* Xin Quý Vị hãy nhấn vào hàng chữ xanh dưới đây để xem bản Kiến Nghị Thư bằng 2 ngôn ngữ Việt - Anh và ký ▼Thỉnh Nguyện Thư http://www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn.html
* Nếu gặp trở ngại ▼ xin nhấn vô link dưới theo sự chỉ dẫn ký Kiến Nghị Thư http://www.vcavic.org.au/
* Xem số người đã ký ▼ Thỉnh Nguyện Thư http://www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn/signatures.html
* Nguồn Video Link chữ màu xanh nầy: http://www.rfa.org/vietnamese
Video: Cuộc thi "Tiếng hát Dòng nhạc Yêu nước "Đỗ Thị Minh Hạnh"
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Một cuộc thi hát hết sức đặc biệt, không đem về danh lợi cho người thắng giải, không hứa hẹn một giải thưởng giá trị về vật chất hay một sự nổi tiếng, mà ngược lại còn có thể mang lại cho người tham gia những rắc rối, khó khăn với chính quyền. Một điểm đặc biệt khác nữa là các thí sinh không cần phải xuất hiện trước ban giám khảo vì cuộc thi được tổ chức và diễn ra trên mạng internet.
Cuộc thi này còn đặc biệt ở chỗ do người trẻ tổ chức, thành phần thí sinh tham dự là thanh niên trong nước, và những bài hát họ trình bày bao gồm các ca khúc yêu nước mà hầu hết là của các nhạc sĩ trẻ, những tác phẩm mà trong mắt chính quyền Việt Nam có thể bị xem là nhạy cảm.
Và đặc biệt hơn nữa là cuộc thi này nhằm vinh danh một cô gái trẻ trong độ tuổi đôi mươi đang bị cầm tù về tội danh “phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân” vì những hoạt động tranh đấu, cổ võ cho quyền lợi của người công nhân. Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh.
Thí sinh tham gia sẽ trình bày và tự ghi âm một ca khúc trong danh sách các bài nhạc yêu nước được đề nghị, rồi tải lên các trang mạng như Youtube, Multiply, nhaccuatui.com, hay mp3.zing.vn, hoặc post lên các trang xã hội như Facebook, Google plus để cư dân mạng bình chọn. Sau đó, thí sinh gửi các đường link này về cho ban tổ chức để ban tổ chức chọn ra phần dự thi có số người yêu chuộng nhiều nhất, tức được nhiều người bấm Like nhất từ 2 nguồn link khác nhau.
Các bài hát ban tổ chức đưa ra bao gồm tác phẩm Việt Nam tôi đâu, Anh Là Ai của nhạc Sĩ Việt Khang, Trái Tim Việt Nam, sáng tác của nhạc Sĩ Tuấn Khanh, Này người anh em của nhạc Sĩ Trần Lê Quỳnh, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang, Đáp lời Sông Núi của nhạc sĩ Trúc Hồ, và ca khúc Bữa cơm tù.
Phần thưởng khích lệ dành cho thí sinh đoạt giải nhất là 10 triệu đồng. Giải nhì trị giá 5 triệu, giải ba 2 triệu, cùng ba giải khuyến khích mỗi giải 1 triệu đồng. Ngoài các giải nhất, nhì, ba do người nghe trên mạng bình chọn, ban tổ chức cũng mời một số nhạc sĩ giúp chọn ra một giải đặc biệt về năng khiếu ca nhạc trị giá ít nhất 2 triệu đồng.
Người phát động cuộc thi lấy tên hiệu là ‘Đường đời sỏi đá’ cho biết:
“Mình muốn mượn âm nhạc, đưa các bài nhạc yêu nước tới các bạn trẻ Việt Nam để khơi dậy lòng yêu nước đang tiềm ẩn trong mỗi người. Đất nước chúng ta hiện giờ đang rất cần những người có tấm lòng, có trái tim yêu nước vì chúng ta đang đứng trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc.
Đây cũng là món quà tinh thần mà mình muốn tặng làm quà sinh nhật cho Đỗ Thị Minh Hạnh đang ở trong tù, tiếng hát từ trái tim của những người yêu nước, khơi dậy lòng yêu nước từ những bài nhạc có ca từ rất trong sáng. Rất mong các bạn trẻ đừng vô cảm trước hiện tình đất nước. Đó là ý chính mà mình muốn tổ chức cuộc thi này. Đây là cuộc thi xuất phát từ tấm lòng của mình, không nhân danh một tổ chức,nhóm, hay đảng phái nào cả.”
Một thí sinh từ Sài Gòn tên Thành chia sẻ lý do khiến bạn không ngần ngại đăng ký tham gia cuộc thi này dẫu biết rằng có thể không được chính quyền hoan nghênh:
“Đỗ Thị Minh Hạnh bị bắt giam với một bản án rất nặng, 7 năm tù. Lý do khiến Hạnh bị giam là đòi hỏi quyền cho người công nhân, một việc làm mình cảm thấy rất đúng đắn. Mình mến Hạnh vì hành động của Hạnh. Hạnh là một người yêu ca hát. Trong trại giam Hạnh cũng hay sáng tác và hay hát. Cuộc thi hát những ca khúc yêu nước, mình không quan trọng giải thưởng, nhưng mình thấy nội dung nó hay. Mình mong muốn đây là món quà nhỏ tặng cho Hạnh. Và việc giao tiếp với nhau, tặng một ca khúc và hát với nhau một ca khúc, mà hơn nữa đó là một ca khúc yêu nước, mình nghĩ đây là việc rất bình thường.
Hạnh có chung với người trẻ và các anh em một tinh thần yêu nước. Mình tham gia không để nhận giải thưởng mà tham gia để hưởng ứng tinh thần. Có thể mình sẽ bị làm khó vì hát những bài hát yêu nước, nhưng đó cũng là một vinh hạnh cho mình.”
Anh Nguyễn Bắc Truyển, nguyên Giám đốc Công ty vận tải quốc tế Việt-Thịnh-Phát, từng bị 3 năm rưỡi tù giam vì các hoạt động bị chính quyền Việt Nam tố cáo là “tuyên truyền chống phá nhà nước” nhưng giới ủng hộ dân chủ gọi là cổ võ cho dân chủ-nhân quyền. Anh là một trong những người đầu tiên hăng hái đăng ký dự thi. Anh nói về Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh:
“Đỗ Thị Minh Hạnh là một cô gái trẻ có tinh thần dấn thân cho công cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đấu tranh cho quyền lợi của người công nhân. Tôi rất mến phục. Anh Việt Khang là một nhạc sĩ đã vắt tim óc của mình để viết hai bài hát rất nổi tiếng: Anh là ai và Việt Nam tôi đâu. Đối với hai người bạn trẻ này, tôi dành một tình cảm rất đặc biệt. Khi có cuộc thi này, tôi thấy mình nên tham gia.
Ngoài những thông cảm giữa những tù nhân chính trị với nhau, tôi còn muốn hát lên rằng lời ca của Việt Khang trong bài Việt Nam tôi đâu, từng chữ từng lời trong đó, tôi thấy không thừa một chữ, đã nói lên tất cả hiện tình và những nỗi lòng của người dân đang ưu tư trong tim óc mình. Cho nên, tôi muốn hát lên để nói với mọi người rằng tôi cũng đang có những tâm trạng như vậy.”
Ban tổ chức cho biết cuộc thi đã thu hút nhiều mạnh thường quân trong nước. Trong số này có Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội, mộtnhà bất đồng chính kiến được nhiều người biết đến. Ông nói ông vui mừng khi thấy cuộc thi này được phát động:
“Mừng trước hết vì thấy các anh em trẻ bây giờ vẫn quan tâm đến tình hình chính trị đất nước. Cái mừng thứ hai khi thấy tình người giữa các bạn trẻ dù trong hay ngoài nước vẫn rất thắm thiết. Dù đã luống tuổi, nhưng tôi thấy cuộc thi này, tôi rất sung sướng. Cho nên, tôi hưởng ứng ngay. Mặc dù bây giờ về mặt tài chính tôi cũng chỉ có lương hưu là chính, nhưng tôi sẵn sàng đóng góp một phần nhỏ vào đấy với hy vọng động viên những việc làm như thế này của các anh em trẻ, đồng thời để kích thích mọi người cũng hưởng ứng quỹ này. Còn về cuộc thi này có mang tính nhạy cảm hay không, đối với tôi, Đỗ Thị Minh Hạnh không có tội.
Việc bỏ tù người con gái đáng quý đã xả thân vì giai cấp công nhân Việt Nam mà bỏ tù họ là một điều vô đạo lý. Cho nên, tôi không xem cuộc thi này là nhạy cảm mà sẵn sàng đứng ra để bênh vực và lúc nào cũng sẵn sàng vinh danh những người trẻ biết nghĩ đến nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân hiện vẫn là những người lao khổ tại Việt Nam.”
Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh được phát động từ giữa tháng 3 và hạn chót đăng ký là ngày 5/5. Kết quả sẽ được côngbố ngay ngày Nhân Quyền Việt Nam 11/5.
Địa chỉ email để các mạnh thường quân và các thí sinh liên lạc về cuộc thi này là: duongdoisoida@gmail.com. Ban tổ chức cho biết các bạn có thể dùng nickname hay số thứ tự của thí sinh tùy theo nhu cầu an ninh cá nhân. Ngoài ra, nếu thí sinh cần hỗ trợ kỹ thuật, ban tổ chức cũng sẽ giúp các thí sinh tải phần dự thi của mình lên các trang mạng. Thí sinh chỉ cần email phần dự thi của mình về địa chỉ email vừa kể.
Ban tổ chức nói ngoài các phần thưởng tượng trưng cho các thí sinh, số tiền còn lại từ nguồn quỹ do các mạnh thường quân đóng góp cho Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh sẽ được chuyển tặng cho Minh Hạnh.
Các bạn có thể tìm hiểu mọi chi tiết về cuộc thi và thưởng thức phần dự thi của các thí sinh trên trang Facebook: Cuộc Thi Tiếng Hát Dòng Nhạc Yêu Nước Đỗ Thị Minh Hạnh (ĐTMH).
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Một cuộc thi hát hết sức đặc biệt, không đem về danh lợi cho người thắng giải, không hứa hẹn một giải thưởng giá trị về vật chất hay một sự nổi tiếng, mà ngược lại còn có thể mang lại cho người tham gia những rắc rối, khó khăn với chính quyền. Một điểm đặc biệt khác nữa là các thí sinh không cần phải xuất hiện trước ban giám khảo vì cuộc thi được tổ chức và diễn ra trên mạng internet.
Cuộc thi này còn đặc biệt ở chỗ do người trẻ tổ chức, thành phần thí sinh tham dự là thanh niên trong nước, và những bài hát họ trình bày bao gồm các ca khúc yêu nước mà hầu hết là của các nhạc sĩ trẻ, những tác phẩm mà trong mắt chính quyền Việt Nam có thể bị xem là nhạy cảm.
Và đặc biệt hơn nữa là cuộc thi này nhằm vinh danh một cô gái trẻ trong độ tuổi đôi mươi đang bị cầm tù về tội danh “phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân” vì những hoạt động tranh đấu, cổ võ cho quyền lợi của người công nhân. Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh.
Thí sinh tham gia sẽ trình bày và tự ghi âm một ca khúc trong danh sách các bài nhạc yêu nước được đề nghị, rồi tải lên các trang mạng như Youtube, Multiply, nhaccuatui.com, hay mp3.zing.vn, hoặc post lên các trang xã hội như Facebook, Google plus để cư dân mạng bình chọn. Sau đó, thí sinh gửi các đường link này về cho ban tổ chức để ban tổ chức chọn ra phần dự thi có số người yêu chuộng nhiều nhất, tức được nhiều người bấm Like nhất từ 2 nguồn link khác nhau.
Các bài hát ban tổ chức đưa ra bao gồm tác phẩm Việt Nam tôi đâu, Anh Là Ai của nhạc Sĩ Việt Khang, Trái Tim Việt Nam, sáng tác của nhạc Sĩ Tuấn Khanh, Này người anh em của nhạc Sĩ Trần Lê Quỳnh, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang, Đáp lời Sông Núi của nhạc sĩ Trúc Hồ, và ca khúc Bữa cơm tù.
Phần thưởng khích lệ dành cho thí sinh đoạt giải nhất là 10 triệu đồng. Giải nhì trị giá 5 triệu, giải ba 2 triệu, cùng ba giải khuyến khích mỗi giải 1 triệu đồng. Ngoài các giải nhất, nhì, ba do người nghe trên mạng bình chọn, ban tổ chức cũng mời một số nhạc sĩ giúp chọn ra một giải đặc biệt về năng khiếu ca nhạc trị giá ít nhất 2 triệu đồng.
Người phát động cuộc thi lấy tên hiệu là ‘Đường đời sỏi đá’ cho biết:
“Mình muốn mượn âm nhạc, đưa các bài nhạc yêu nước tới các bạn trẻ Việt Nam để khơi dậy lòng yêu nước đang tiềm ẩn trong mỗi người. Đất nước chúng ta hiện giờ đang rất cần những người có tấm lòng, có trái tim yêu nước vì chúng ta đang đứng trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc.
Đây cũng là món quà tinh thần mà mình muốn tặng làm quà sinh nhật cho Đỗ Thị Minh Hạnh đang ở trong tù, tiếng hát từ trái tim của những người yêu nước, khơi dậy lòng yêu nước từ những bài nhạc có ca từ rất trong sáng. Rất mong các bạn trẻ đừng vô cảm trước hiện tình đất nước. Đó là ý chính mà mình muốn tổ chức cuộc thi này. Đây là cuộc thi xuất phát từ tấm lòng của mình, không nhân danh một tổ chức,nhóm, hay đảng phái nào cả.”
Một thí sinh từ Sài Gòn tên Thành chia sẻ lý do khiến bạn không ngần ngại đăng ký tham gia cuộc thi này dẫu biết rằng có thể không được chính quyền hoan nghênh:
“Đỗ Thị Minh Hạnh bị bắt giam với một bản án rất nặng, 7 năm tù. Lý do khiến Hạnh bị giam là đòi hỏi quyền cho người công nhân, một việc làm mình cảm thấy rất đúng đắn. Mình mến Hạnh vì hành động của Hạnh. Hạnh là một người yêu ca hát. Trong trại giam Hạnh cũng hay sáng tác và hay hát. Cuộc thi hát những ca khúc yêu nước, mình không quan trọng giải thưởng, nhưng mình thấy nội dung nó hay. Mình mong muốn đây là món quà nhỏ tặng cho Hạnh. Và việc giao tiếp với nhau, tặng một ca khúc và hát với nhau một ca khúc, mà hơn nữa đó là một ca khúc yêu nước, mình nghĩ đây là việc rất bình thường.
Hạnh có chung với người trẻ và các anh em một tinh thần yêu nước. Mình tham gia không để nhận giải thưởng mà tham gia để hưởng ứng tinh thần. Có thể mình sẽ bị làm khó vì hát những bài hát yêu nước, nhưng đó cũng là một vinh hạnh cho mình.”
Anh Nguyễn Bắc Truyển, nguyên Giám đốc Công ty vận tải quốc tế Việt-Thịnh-Phát, từng bị 3 năm rưỡi tù giam vì các hoạt động bị chính quyền Việt Nam tố cáo là “tuyên truyền chống phá nhà nước” nhưng giới ủng hộ dân chủ gọi là cổ võ cho dân chủ-nhân quyền. Anh là một trong những người đầu tiên hăng hái đăng ký dự thi. Anh nói về Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh:
“Đỗ Thị Minh Hạnh là một cô gái trẻ có tinh thần dấn thân cho công cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đấu tranh cho quyền lợi của người công nhân. Tôi rất mến phục. Anh Việt Khang là một nhạc sĩ đã vắt tim óc của mình để viết hai bài hát rất nổi tiếng: Anh là ai và Việt Nam tôi đâu. Đối với hai người bạn trẻ này, tôi dành một tình cảm rất đặc biệt. Khi có cuộc thi này, tôi thấy mình nên tham gia.
Ngoài những thông cảm giữa những tù nhân chính trị với nhau, tôi còn muốn hát lên rằng lời ca của Việt Khang trong bài Việt Nam tôi đâu, từng chữ từng lời trong đó, tôi thấy không thừa một chữ, đã nói lên tất cả hiện tình và những nỗi lòng của người dân đang ưu tư trong tim óc mình. Cho nên, tôi muốn hát lên để nói với mọi người rằng tôi cũng đang có những tâm trạng như vậy.”
Ban tổ chức cho biết cuộc thi đã thu hút nhiều mạnh thường quân trong nước. Trong số này có Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thanh Giang ở Hà Nội, mộtnhà bất đồng chính kiến được nhiều người biết đến. Ông nói ông vui mừng khi thấy cuộc thi này được phát động:
“Mừng trước hết vì thấy các anh em trẻ bây giờ vẫn quan tâm đến tình hình chính trị đất nước. Cái mừng thứ hai khi thấy tình người giữa các bạn trẻ dù trong hay ngoài nước vẫn rất thắm thiết. Dù đã luống tuổi, nhưng tôi thấy cuộc thi này, tôi rất sung sướng. Cho nên, tôi hưởng ứng ngay. Mặc dù bây giờ về mặt tài chính tôi cũng chỉ có lương hưu là chính, nhưng tôi sẵn sàng đóng góp một phần nhỏ vào đấy với hy vọng động viên những việc làm như thế này của các anh em trẻ, đồng thời để kích thích mọi người cũng hưởng ứng quỹ này. Còn về cuộc thi này có mang tính nhạy cảm hay không, đối với tôi, Đỗ Thị Minh Hạnh không có tội.
Việc bỏ tù người con gái đáng quý đã xả thân vì giai cấp công nhân Việt Nam mà bỏ tù họ là một điều vô đạo lý. Cho nên, tôi không xem cuộc thi này là nhạy cảm mà sẵn sàng đứng ra để bênh vực và lúc nào cũng sẵn sàng vinh danh những người trẻ biết nghĩ đến nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân hiện vẫn là những người lao khổ tại Việt Nam.”
Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh được phát động từ giữa tháng 3 và hạn chót đăng ký là ngày 5/5. Kết quả sẽ được côngbố ngay ngày Nhân Quyền Việt Nam 11/5.
Địa chỉ email để các mạnh thường quân và các thí sinh liên lạc về cuộc thi này là: duongdoisoida@gmail.com. Ban tổ chức cho biết các bạn có thể dùng nickname hay số thứ tự của thí sinh tùy theo nhu cầu an ninh cá nhân. Ngoài ra, nếu thí sinh cần hỗ trợ kỹ thuật, ban tổ chức cũng sẽ giúp các thí sinh tải phần dự thi của mình lên các trang mạng. Thí sinh chỉ cần email phần dự thi của mình về địa chỉ email vừa kể.
Ban tổ chức nói ngoài các phần thưởng tượng trưng cho các thí sinh, số tiền còn lại từ nguồn quỹ do các mạnh thường quân đóng góp cho Cuộc thi Tiếng hát Dòng nhạc yêu nước-Đỗ Thị Minh Hạnh sẽ được chuyển tặng cho Minh Hạnh.
Các bạn có thể tìm hiểu mọi chi tiết về cuộc thi và thưởng thức phần dự thi của các thí sinh trên trang Facebook: Cuộc Thi Tiếng Hát Dòng Nhạc Yêu Nước Đỗ Thị Minh Hạnh (ĐTMH).
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.voanews.com/vietnamese/ne...148275965.html
21 April, 2012
Video of RFA & Michael Posner Phụ Tá Ngoại Trưởng về Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động trả lời thỉnh nguyện thư
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Kiến nghị trả lời: Theo đuổi sự Tiến bộ về nhân quyền với Việt Nam
Tôi muốn cảm ơn tất cả bạn là những người đã ký kiến nghị này nhấn mạnh mối quan tâm của người Mỹ đối với nhân quyền tại Việt Nam và mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. chúng tôi luôn mong mỏi một việt nam phát triển trong đối thoại, chúng tôi đặc biệt nhận thức của các quan điểm của cộng đồng người Việt ở Mỹ
Hoa Kỳ vẫn luôn theo đuổi những tiến bộ về quyền con người . đó là chiến lược lớn của chúng tôi về an ninh , lợi ích kinh tế, và chiến lược đối với Việt Nam. Trong các cuộc thảo luận của chúng tôi với chính phủ Việt Nam, chúng tôi nhấn mạnh rằng tiến bộ về quyền con người, bao gồm cả việc hoạt động của các tù nhân chính trị và tự do tôn giáo, là một phần cần thiết của việc nâng cao quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Ngoại trưởng Clinton nêu ra mối quan tâm nhân quyền của chúng tôi với thủ tướng Viet Nam .Sau khi họ gặp nhau vào 11- 2011 ,trong cuộc họp về kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) tại Honolulu, Hawaii. Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear đã nêu ra mối quan tâm tương tự trong tất cả các cấp cao trong các cuộc họp của ông kể từ khi đến Việt Nam từ tháng Tám năm ngoái, và ông và phái đoàn thường xuyên tham gia với các quan chức chính phủ Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân khác như là một phần của cam kết Chính phủ của chúng tôi của để quảng bá tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam.
Trong thời gian hàng năm Hoa Kỳ-Việt Nam có cuộc họp Đối thoại vào tháng mười một, tôi, cùng với Đại sứ hy vọng rất lớn cho Tự do Tôn giáo Suzan Johnson Cook và các quan chức cấp cao khác, kêu gọi Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị, tăng cường tự do tôn giáo, phê chuẩn và thực hiện Công ước chống tra tấn, và thực hiện các bước khác để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người phổ biến cho người Việt Nam.
Đồng nghiệp của tôi, Kurt Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, nhấn mạnh những mối quan tâm trực tiếp với các quan chức Việt Nam trong chuyến thăm gần đây nhất của ông đến Hà Nội vào ngày 02 tháng 2. Đọc một bảng nhận định trong cuộc họp báo tại Hà Nội (PDF).
Ngoài ra, sự tham gia của chúng tôi với Việt Nam về thương mại, bao gồm cả việc thông qua cho vay với lãi suất ưu đãi(GSP) và tham gia vào các quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đã cung cấp cơ hội để nâng cao các vấn đề này. Cả hai GSP và TPP bao gồm cam kết bảo vệ quyền lao động, bao gồm cả quyền tự do lập hội.hội hộp tự do lập đãng phái
Chính quyền Obama cam kết trong cuộc đối thoại đã diễn ra với cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Ngày 05 tháng 3 năm 2012, đồng nghiệp của tôi và tôi tham gia một cuộc họp được tổ chức bởi Văn phòng Nhà Trắng của Public Engagement cho 165 người Mỹ gốc Việt từ 30 tiểu bang, những người làm việc trên các cộng đồng người việt hải ngoại để thúc đẩy quyền con người, quan hệ đối tác toàn cầu, và có tiếng nói cho người Việt hải ngoại được bài tỏ chính kiến về Việt Nam. Trong cuộc họp, chúng tôi nhấn mạnh rằng vấn đề nhân quyền là một thành phần quan trọng của các cuộc thảo luận đang diễn ra với Việt Nam và Hoa Kỳ liên tục tham gia với Việt Nam về quyền con người thông qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm cuộc đối thoại hàng năm Hoa Kỳ-Việt Nam về Nhân quyền.
Tôi khuyến khích tất cả mọi người tham gia vào bản kiến nghị này để tiếp tục bày tỏ quan điểm và mối quan tâm của bạn về chính trị, là quan trọng nhất để chính phủ Việt Nam hành động theo công ước. Tôi cũng khuyến khích bạn thực hiện theo công việc của chúng tôi trên http://www.humanrights.gov. (Ngoài ra, Bộ Ngoại giao năm 2010 Quyền con người Báo cáo cho Việt Nam và quốc tế Báo cáo Tự do Tôn giáo cho Việt Nam).
Chúng tôi mong muốn đối thoại có ý nghĩa và quan hệ đối tác với cộng đồng của bạn trong tương lai.
Michael Posner, Trợ lý Ngoại trưởng về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động tại Bộ Ngoại giao
Đọc nguyên bản tiếng Anh ở link nầy: http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?s=cfe6930e2e1c8d7c68c9c88cac20e930&t=20508
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Kiến nghị trả lời: Theo đuổi sự Tiến bộ về nhân quyền với Việt Nam
Tôi muốn cảm ơn tất cả bạn là những người đã ký kiến nghị này nhấn mạnh mối quan tâm của người Mỹ đối với nhân quyền tại Việt Nam và mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. chúng tôi luôn mong mỏi một việt nam phát triển trong đối thoại, chúng tôi đặc biệt nhận thức của các quan điểm của cộng đồng người Việt ở Mỹ
Hoa Kỳ vẫn luôn theo đuổi những tiến bộ về quyền con người . đó là chiến lược lớn của chúng tôi về an ninh , lợi ích kinh tế, và chiến lược đối với Việt Nam. Trong các cuộc thảo luận của chúng tôi với chính phủ Việt Nam, chúng tôi nhấn mạnh rằng tiến bộ về quyền con người, bao gồm cả việc hoạt động của các tù nhân chính trị và tự do tôn giáo, là một phần cần thiết của việc nâng cao quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Ngoại trưởng Clinton nêu ra mối quan tâm nhân quyền của chúng tôi với thủ tướng Viet Nam .Sau khi họ gặp nhau vào 11- 2011 ,trong cuộc họp về kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) tại Honolulu, Hawaii. Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear đã nêu ra mối quan tâm tương tự trong tất cả các cấp cao trong các cuộc họp của ông kể từ khi đến Việt Nam từ tháng Tám năm ngoái, và ông và phái đoàn thường xuyên tham gia với các quan chức chính phủ Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân khác như là một phần của cam kết Chính phủ của chúng tôi của để quảng bá tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam.
Trong thời gian hàng năm Hoa Kỳ-Việt Nam có cuộc họp Đối thoại vào tháng mười một, tôi, cùng với Đại sứ hy vọng rất lớn cho Tự do Tôn giáo Suzan Johnson Cook và các quan chức cấp cao khác, kêu gọi Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị, tăng cường tự do tôn giáo, phê chuẩn và thực hiện Công ước chống tra tấn, và thực hiện các bước khác để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người phổ biến cho người Việt Nam.
Đồng nghiệp của tôi, Kurt Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, nhấn mạnh những mối quan tâm trực tiếp với các quan chức Việt Nam trong chuyến thăm gần đây nhất của ông đến Hà Nội vào ngày 02 tháng 2. Đọc một bảng nhận định trong cuộc họp báo tại Hà Nội (PDF).
Ngoài ra, sự tham gia của chúng tôi với Việt Nam về thương mại, bao gồm cả việc thông qua cho vay với lãi suất ưu đãi(GSP) và tham gia vào các quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đã cung cấp cơ hội để nâng cao các vấn đề này. Cả hai GSP và TPP bao gồm cam kết bảo vệ quyền lao động, bao gồm cả quyền tự do lập hội.hội hộp tự do lập đãng phái
Chính quyền Obama cam kết trong cuộc đối thoại đã diễn ra với cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Ngày 05 tháng 3 năm 2012, đồng nghiệp của tôi và tôi tham gia một cuộc họp được tổ chức bởi Văn phòng Nhà Trắng của Public Engagement cho 165 người Mỹ gốc Việt từ 30 tiểu bang, những người làm việc trên các cộng đồng người việt hải ngoại để thúc đẩy quyền con người, quan hệ đối tác toàn cầu, và có tiếng nói cho người Việt hải ngoại được bài tỏ chính kiến về Việt Nam. Trong cuộc họp, chúng tôi nhấn mạnh rằng vấn đề nhân quyền là một thành phần quan trọng của các cuộc thảo luận đang diễn ra với Việt Nam và Hoa Kỳ liên tục tham gia với Việt Nam về quyền con người thông qua nhiều kênh khác nhau, bao gồm cuộc đối thoại hàng năm Hoa Kỳ-Việt Nam về Nhân quyền.
Tôi khuyến khích tất cả mọi người tham gia vào bản kiến nghị này để tiếp tục bày tỏ quan điểm và mối quan tâm của bạn về chính trị, là quan trọng nhất để chính phủ Việt Nam hành động theo công ước. Tôi cũng khuyến khích bạn thực hiện theo công việc của chúng tôi trên http://www.humanrights.gov. (Ngoài ra, Bộ Ngoại giao năm 2010 Quyền con người Báo cáo cho Việt Nam và quốc tế Báo cáo Tự do Tôn giáo cho Việt Nam).
Chúng tôi mong muốn đối thoại có ý nghĩa và quan hệ đối tác với cộng đồng của bạn trong tương lai.
Michael Posner, Trợ lý Ngoại trưởng về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động tại Bộ Ngoại giao
Đọc nguyên bản tiếng Anh ở link nầy: http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?s=cfe6930e2e1c8d7c68c9c88cac20e930&t=20508
19 April, 2012
HRW kêu gọi Australia cổ xúy nhân quyền ở Đông Nam Á bao gồm Việt Nam
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Australia nên đặt vấn đề nhân quyền làm một yếu tố ưu tiên khi thắt chặt quan hệ với các nước Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam.
Đó là nội dung thư ngỏ của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế Human Rights Watch vừa gửi tới tân Ngoại trưởng Bob Carr của Australia.
Human Rights Watch cho rằng trong chuyến công du mới đây tới Việt Nam, Kampuchea, và Singapore, Ngoại trưởng Bob Carr nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các nước Đông Nam Á như những nước bạn và đối tác giao thương của Australia, nhưng lại ít đề cập đến nhân quyền của người dân trong khu vực.
Phó Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc tổ chức Human Rights Watch, bà Elaine Pearson, cho rằng giao thương không thôi chưa đủ đối với người dân ở các nước Đông Nam Á vốn đang bị khước từ các nhân quyền căn bản.
Theo bà Pearson, trong tư cách là một nền dân chủ thành công lâu dài, Australia cần phải trao đổi thẳng thắn với lãnh đạo trong vùng về việc giải quyết các mối quan ngại liên quan đến nhân quyền.
Human Rights Watch đề nghị Australia nên khuyến khích các nước thành viên trong Hiệp hội ASEAN phê chuẩn Công ước về vị thế người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư của Công ước năm 1967, giúp đảm bảo rằng người tị nạn chính trị có thể tiếp cận được với các hệ thống xử lý vấn đề tị nạn và tôn trọng tiêu chí không hồi hương người tị nạn về những nơi mà cuộc sống và quyền tự do của họ có thể bị đe dọa.
Trong thư, Human Rights Watch cũng nêu lên thực trạng lực lượng công quyền tra tấn, sát hại, và làm mất tích những người bị bắt giữ tại nhiều nước Đông Nam Á mà chính phủ Australia giúp đào tạo và hỗ trợ lực lượng an ninh.
Human Rights Watch kêu gọi Australia nên xét lại thành tích nhân quyền của các nhân viên và đơn vị được Australia nhận đào tạo trong lực lượng an ninh của các nước này.
Lá thư của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch gửi Ngoại trưởng Australia đề cập tới tình hình nhân quyền tại Việt Nam, Miến Điện, Kampuchea, Trung Quốc, Indonesia, và Malaysia.
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Australia nên đặt vấn đề nhân quyền làm một yếu tố ưu tiên khi thắt chặt quan hệ với các nước Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam.
Đó là nội dung thư ngỏ của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế Human Rights Watch vừa gửi tới tân Ngoại trưởng Bob Carr của Australia.
Human Rights Watch cho rằng trong chuyến công du mới đây tới Việt Nam, Kampuchea, và Singapore, Ngoại trưởng Bob Carr nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các nước Đông Nam Á như những nước bạn và đối tác giao thương của Australia, nhưng lại ít đề cập đến nhân quyền của người dân trong khu vực.
Phó Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc tổ chức Human Rights Watch, bà Elaine Pearson, cho rằng giao thương không thôi chưa đủ đối với người dân ở các nước Đông Nam Á vốn đang bị khước từ các nhân quyền căn bản.
Theo bà Pearson, trong tư cách là một nền dân chủ thành công lâu dài, Australia cần phải trao đổi thẳng thắn với lãnh đạo trong vùng về việc giải quyết các mối quan ngại liên quan đến nhân quyền.
Human Rights Watch đề nghị Australia nên khuyến khích các nước thành viên trong Hiệp hội ASEAN phê chuẩn Công ước về vị thế người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư của Công ước năm 1967, giúp đảm bảo rằng người tị nạn chính trị có thể tiếp cận được với các hệ thống xử lý vấn đề tị nạn và tôn trọng tiêu chí không hồi hương người tị nạn về những nơi mà cuộc sống và quyền tự do của họ có thể bị đe dọa.
Trong thư, Human Rights Watch cũng nêu lên thực trạng lực lượng công quyền tra tấn, sát hại, và làm mất tích những người bị bắt giữ tại nhiều nước Đông Nam Á mà chính phủ Australia giúp đào tạo và hỗ trợ lực lượng an ninh.
Human Rights Watch kêu gọi Australia nên xét lại thành tích nhân quyền của các nhân viên và đơn vị được Australia nhận đào tạo trong lực lượng an ninh của các nước này.
Lá thư của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch gửi Ngoại trưởng Australia đề cập tới tình hình nhân quyền tại Việt Nam, Miến Điện, Kampuchea, Trung Quốc, Indonesia, và Malaysia.
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://www.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/hrw-calls-on-australia-to-promote-human-rights-in-southeast-asia-4-16-12-147566325.html
Ông giáo sư dạy Sử
* Quý Vị hãy nhấn vô Link chữ màu xanh dưới đây sẽ dễ dàng nghe Paltalk Online - Vượt Tường Lửa & Nghe Radio trên Internet ▼
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).
So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua.
Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa.
Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những gì thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh.
Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những gì liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết.
Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông.
Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực.
Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt - Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.
Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những
năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm.
Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20
(E.M.)
Sơ lược về Tác giả- Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
http://conghoaxahoichunghiavietnam.blogspot.com/2011/08/nghe-paltalk-online-vuot-tuong-lua-nghe.html
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).
So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua.
Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh ...nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa.
Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những gì thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh.
Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những gì liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết.
Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông.
Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực.
Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt - Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.
Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những
năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm.
Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20
(E.M.)
Sơ lược về Tác giả- Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
* Nguồn tin trên ở Link chữ màu xanh nầy: http://hoilatraloi.blogspot.com
Subscribe to:
Posts (Atom)